Từ Coutinho rời Liverpool đến Barca, Liverpool gần như thiếu đi chất nghệ sĩ và thanh thoát ở hàng tiền vệ. Đến kỳ chuyển nhượng mùa hè, Liverpool đã đưa về sân Anfield tiền vệ Xherdan Shaqiri để lấp đầy vị trí mà cầu thủ người Brazil để lại. Có thể nói đây là bản hợp đồng khá thành công cho tới thời điểm này của HLV Jurgen Klopp.
Hôm nay, keo79.com sẽ giới thiệu cho các bạn về chàng cầu thủ người Thụy Sĩ đầy hào hoa và dày dạn kinh nghiệm thi đấu này.
Thông tin tiểu sử, sự nghiệp của Xherdan Shaqiri
Bảng tóm tắt thông tin của Xherdan Shaqiri |
|||
Thông tin cá nhân |
|||
Họ và tên | Xherdan Shaqiri | ||
Ngày sinh | Ngày 10 tháng 10 năm 1991(27 tuổi) | ||
Nơi sinh | Gjilan, SFR Nam Tư | ||
Chiều cao | 1,69 m (5 ft 7 in) | ||
Vị trí chơi | Tiền vệ cánh phải | ||
Thông tin câu lạc bộ |
|||
Câu lạc bộ | Liverpool | ||
Số áo | 23 | ||
Sự nghiệp thanh niên | |||
1999-2001 | SV tháng tám | ||
2001-2002 | FC Basel | ||
Sự nghiệp thi đấu chuyên nghiệp |
|||
Năm | Đội | Trận | bàn |
2007-2009 | FC Basel II | 19 | 8 |
2009-2012 | FC Basel | 92 | 18 |
2012-2015 | Bayern Munich | 52 | 11 |
2015 | Inter Milan | 15 | 1 |
2015-2018 | Stoke City | 84 | 15 |
2018 | Liverpool | 26 | 6 |
Đội tuyển quốc gia Thụy Sĩ |
|||
2007-2008 | Thụy Sĩ U17 | 10 | 0 |
2008-2009 | Thụy Sĩ U18 | 5 | 0 |
2009 | Thụy Sĩ U19 | 5 | 3 |
2009-2011 | Thụy Sĩ U21 | 7 | 1 |
2010- | ĐTQG Thụy sĩ | 82 | 22 |
Tuổi thơ
Tóm tắt sự nghiệp
Chàng “Hobbit” phiêu lưu trên các sân cỏ ở châu Âu
FC Basel
Xherdan Shaqiri bắt đầu sự nghiệp của mình tại câu lạc bộ quê nhà SV Augst khi còn 8 tuổi, anh đã được FC Basel tìm thấy và đào tạo. Trong khi chơi cho đội trẻ của Basel, anh thi đấu ở giải U-15 Nike Cup 2007 và được bầu chọn là cầu thủ hay nhất giải đấu. Mặc dù có một số câu lạc bộ khác cố gắng ký hợp đồng với Xherdan Shaqiri nhưng anh đã quyết định ở lại Basel. Hai năm sau, Shaqiri ký hợp đồng chuyên nghiệp đầu tiên với Basel vào ngày 02 tháng 01 năm 2009, hợp đồng mới của anh tại St. Jakob-Park có thời hạn đến tháng 06 năm 2014.
Xherdan Shaqiri ra mắt đội hình chính của Basel vào ngày 12 tháng 07 năm 2009 trong trận mở màn mùa giải 2009 của Basel với FC St. Gallen tại Đấu trường AFG. Anh ghi bàn thắng đầu tiên cho Basel trong chiến thắng 4-1 trước Neuchâtel Xamax trên sân nhà vào ngày 09 tháng 11 năm 2009.
Vào cuối mùa giải 2009-10, Shaqiri giành cú đúp quốc gia với Basel, và một năm sau anh tiếp tục giành được danh hiệu Cúp Liên đoàn.
Vào tháng 12 năm 2011, Xherdan Shaqiri đã có hai pha kiến tạo trong trận đấu với Manchester United với chiến thắng 2-1 chung cuộc. Vào cuối mùa giải 2011-2012, Anh cùng Basel giành cú đúp, bao gồm danh hiệu Liên đoàn và Cúp Thụy Sĩ.
Bayern Munich
Vào ngày 09 tháng 02 năm 2012, Basel đã bán Xherdan Shaqiri cho câu lạc bộ Đức Bayern Munich của Bundesliga vào mùa giải 2012-2013. Với mức phí chuyển nhượng là 11,6 triệu Euro, Shaqiri sẽ ký hợp đồng 4 năm với câu lạc bộ Đức, kéo dài đến ngày 30 tháng 06 năm 2016. Anh được nhận lương khoảng 2 triệu euro mỗi mùa.
Vào ngày 10 tháng 07 năm 2012, Shaqiri xuất hiện lần đầu tiên trong trận giao hữu với đội bóng láng giềng xứ Bavaria SpVgg Unterhaching.
Xherdan Shaqiri đã giành chức vô địch UEFA Champions League 2012 với Bayern, cũng như Bundesliga và danh hiệu DFB-Pokal, giúp anh trở thành một trong những cầu thủ của Bayern Munich giành cú ăn ba đầu tiên trong câu lạc bộ lịch sử. Anh có thêm Siêu cúp UEFA và FIFA Club World Cup cùng năm đó. Đến tháng 06 năm 2014, Shaqiri được trở thành cầu thủ bóng đá Thụy Sĩ có bản thành tích xuất sắc nhất khi anh chỉ mới 22 tuổi và có tổng cộng 13 danh hiệu danh giá.
Inter Milan
Xherdan Shaqiri chuyển đến thi đấu cho câu lạc bộ Ý là Inter Milan vào ngày 09 tháng 01 năm 2015 với mức giá 15 triệu euro. Hợp đồng có thời gian 4 năm rưỡi. Shaqiri đã chọn số 91 cho chiếc áo Inter của mình, đại diện cho năm sinh của anh.
Anh ra mắt Inter vào ngày 17 tháng 01, chơi trong 16 phút cuối thay thế cho cầu thủ Lukas Podolski.
Xherdan Shaqiri đã ghi bàn thắng đầu tiên tại Serie A vào ngày 15 tháng 02 năm 2015 trong chiến thắng 4-1 trên sân khách trước Atalanta . Bốn ngày sau, anh có bàn thắng ở đấu trường châu Âu đầu tiên cho Inter, ghi bàn mở tỷ số từ một hỗ trợ của Zdravko Kuzmanović trong trận hòa 3-3 UEFA Europa League với Celtic.
Stoke City
Vào tháng 07 năm 2015, Stoke City đã bỏ ra 12 triệu bảng để mang Xherdan Shaqiri về sân Britannia. Anh có trận ra mắt vào 11 ngày sau đó trong trận hòa 1-1 với Norwich City tại Carrow Road. Shaqiri ghi những bàn thắng đầu tiên cho Stoke, trong chiến thắng 4-3 trước Everton, anh có cú đúp bàn thắng. Tổng cộng Shaqiri đã chơi 32 trận cho Stoke trong mùa giải 2015-2016, giúp Stoke kết thúc mùa giải ở vị trí thứ 9.
Xherdan Shaqiri đã có 22 lần ra sân trong mùa giải 2016-2017 giúp Stoke City cán đích ở vị trí thứ 13.
Mùa giải tiếp theo, anh đã chơi 38 trận cho Stoke City. Ạnh là cầu thủ ghi bàn hàng đầu cho câu lạc bộ với 8 bàn thắng, kèm theo 7 pha kiến tạo.
Sau 3 mùa giải, Shaqiri đã có tổng cộng 92 lần ra sân và 15 bàn thắng cho Stoke City.
Liverpool F.C
Vào ngày 13 tháng 07 năm 2018, Xherdan Shaqiri đã đặt bút ký vào bản hợp đồng 5 năm với Liverpool sau khi kích hoạt điều khoản giải phóng 13,5 triệu bảng.
Anh có trận đầu tiên cho Liverpool vào ngày 29 tháng 07, trong một trận giao hữu trước mùa giải ở Ann Arbor, Michigan trước kình địch Manchester United. Anh có một siêu phẩm ngã bàn đèn với chiến thắng 4-1 chung cuộc.
Shaqiri đã ghi bàn thắng đầu tiên cho Liverpool vào ngày 27 tháng 10trong chiến thắng 4-1 trước Cardiff City.
Vào ngày 01 tháng 6 năm 2019, Shaqiri giành được chức vô địch Champions League thứ hai cùng với Liverpool. Mặc dù không chơi trong trận chung kết với Tottenham Hotspur, nhưng các đồng đội của anh đã xuất sắc dành chiến thắng với tỷ số 2-0. Hai bàn thắng được ghi do công của Salah và Origi.
Sự nghiệp ở đội tuyển quốc gia Thụy Sĩ
Xherdan Shaqiri có trận ra mắt cho U21 Thụy Sĩ vào ngày 11 tháng 11 năm 2009 trong một chiến thắng 3-1 chống lại Thổ Nhĩ Kỳ. Anh ấy đã ghi bàn thắng đầu tiên cho U21 Thụy Sĩ vào ngày 11 tháng 06 năm 2011 trong trận mở màn Giải vô địch U21 với đội U21 Đan Mạch.
Shaqiri được gọi lên đội tuyển Thụy Sĩ năm 2010. Anh ra mắt màu áo ĐTQG vào ngày 03 tháng 03 năm 2010 trong trận thua 1-3 với Uruguay (giao hữu). Anh được HLV Ottmar Hitzfeld triệu tập cho chiến dịch World Cup 2010.
Shaqiri ghi bàn thắng đầu tiên cho Thụy Sĩ vào ngày 07 tháng 09 năm 2010 trong trận thua trước Anh tại vòng loại Euro 2012.
Vào tháng 06 năm 2014, Shaqiri có tên trong đội hình của Thụy Sĩ tham gia FIFA World Cup 2014. Trong trận mở màn của đội, Shaqiri được FIFA đặt tên là người đàn ông của trận đấu khi đánh bại Ecuador.
Shaqiri đã ghi 3 bàn trong chiến dịch vòng loại UEFA Euro 2016 thành công của đội tuyển Thụy Sĩ. Anh cũng được triệu tập cho chiến dịch FiFA World Cup 2014. Ở vòng bảng, anh đã ghi bàn thắng quyết giúp Thụy Sĩ đánh bại Serbia với tỷ số 2-1.
Những thứ làm nên tên tuổi của Xherdan Shaqiri
Xherdan Shaqiri là một tiền vệ phải có kỹ năng qua người và giữ bóng vô cùng tốt. Không chỉ thế, anh còn là cầu thủ có nhãn quan chiến thuật nhạy bén. Shaqiri là một cầu thủ thiên về kỹ thuật có lối chơi mềm mại và rất nghệ sĩ. Anh là một mẫu cầu thủ mang lại cho người hâm mộ cảm giác thỏa mãn, đã mắt và rất đáng xem.
Chất lượng những có sút xa của Shaqiri cũng rất tốt, điều này đã được thể hiện qua màu áo của Thụy Sĩ và Bayern Munich. Cùng với yếu tố kỹ thuật và dứt điểm, Shaqiri còn nổi tiếng với tốc độ và nhanh nhẹn trong những pha xử lý bóng. Tuy nhiên, tính nhất quán và khả năng kết hợp với các đồng đội không phải là điểm mạnh của anh.
Shaqiri không thật sự nổi bậc về khả năng sáng tạo như ozil, Mata hay Modric nhưng anh lại có khả năng thích ứng với lối chơi và môi trường bóng đá một cách hoàn hảo. Điều này giúp anh thích nghi cực tốt với giải bóng đá khác nghiệt như Ngoại Hạng Anh. Dù sở hữu thân hình thấp bé, nhưng với sự nhanh nhẹn và khả năng giữ thăng bằng một cách đáng kinh ngạc, Shaqiri là một nhân tố đột biến và đầy bất ngờ mà bất cứ đội bóng nào cũng muốn sỡ hữu.
Đó là lý do mà Jurgen Klopp mang anh về Anfield để lấp đi khoảng trống do Coutinho để lại. Anh đóng vai trò như một điểm khác biệt trong lối chơi của Lữ đoàn đỏ.
Danh hiệu đã đạt được trong sự nghiệp
Basel
- Siêu cúp Thụy Sĩ : mùa giải 2009-2010 , 2010-2011 , 2011-2012
- Cúp bóng đá Thụy Sĩ : mùa giải 2009-2010 , 2011-2012
Bayern Munich
- Bundesliga : mùa giải 2012-2013 , 2013-2014
- DFB-Pokal : mùa giải 2012 1813 , 2013-2014
- DFL-Supercup : năm 2012
- UEFA Champions League : mùa 2012-2013
- Siêu cúp UEFA : năm 2013
- Club FIFA World Cup : năm 2013
Liverpool
- UEFA Champions League: mùa giải 2018 -2019 [
- Siêu cúp UEFA : năm 2019
Thụy Sĩ
- Á quân Giải vô địch U21 châu Âu năm 2011
Danh hiệu cá nhân
- Cầu thủ xuất sắc nhất Thụy Sĩ: 2011, 2012