Chắc hẳn những người hâm mộ của môn túc cầu nói chung, cũng như những Fan chân chính của giải bóng đá hấp dẫn nhất hành tinh Premier League nói riêng không xa lạ gì với cái tên “Lữ Đoàn Đỏ”. Đúng! Câu lạc bộ mà hôm nay Admin muốn nói đến chính là Liverpool FC – nhà đương kim vô địch Champions League.
Giới thiệu về Câu lạc bộ bóng đá Liverpool FC
Liverpool FC là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp ở thành phố cảng Liverpool , nước Anh, thi đấu tại giải vô địch Premier League , giải đấu hàng đầu của bóng đá Anh . Câu lạc bộ đã giành được 6 cúp châu Âu , nhiều hơn bất kỳ câu lạc bộ tiếng Anh nào khác, 3 cúp UEFA Europa League và 4 siêu cúp châu Âu UEFA , cũng là kỷ lục của bóng đá Anh, 18 danh hiệu vô địch nước Anh ,7 cúp FA , 8 Liên đoàn và 15 siêu Cúp Anh.
Quá trình hình thành và phát triển của Liverpool FC
Được thành lập vào năm 1892, câu lạc bộ gia nhập Liên đoàn bóng đá Anh vào năm sau. Sân nhà của Liverpool là SVĐ Anfield. Kể từ khi thành lập và tham gia thi đấu, Liverpool đã trở thành một thế lực lớn của bóng đá Anh và châu Âu trong những năm 1970 và 1980. Khi đó, Bill Shankly, Bob Paisley, Joe Fagan và Kenny Dalglish dẫn dắt câu lạc bộ giành được 11 chức vô địch quốc gia cùng 7 danh hiệu châu Âu.
Dưới sự quản lý của Rafael Benítez và được sự chỉ huy của đội trưởng – cầu thủ Steven Gerrard, Liverpool đã trở thành nhà vô địch châu Âu lần thứ năm vào năm 2005 trước khi thêm một chức vô địch thế châu Âu dưới thời Jürgen Klopp vào năm 2019.
Thu nhập
Liverpool là câu lạc bộ bóng đá có thu nhập cao thứ 9 trên thế giới vào năm 2016 – 2017, với doanh thu hàng năm là 424,2 triệu euro, và câu lạc bộ bóng đá có giá trị xếp thứ 8 trên thế giới vào năm 2019 với tổng trị giá 2.183 tỷ đô la. Câu lạc bộ là một trong những đội có lượng Fan hâm mộ lớn nhất trên thế giới. Liverpool ganh đua vô cùng khốc liệt với Manchester United và đội bóng cùng thành phố Everton .
Bài hát và trang phục truyền thống
Bài hát truyền thống của đội bóng là “You’ll Never Walk Alone” (Được Dịch là: “Bạn sẽ không bao giờ bước đi đơn độc”). Màu áo truyền thống của CLB là màu áo đỏ. Cầu thủ Liverpool lần đầu tiên mặc trang phục thi đấu toàn bộ đỏ vào năm 1964, khi HLV Bill Shankly cho rằng màu đỏ sẽ gây tác động đến tâm lý đối thủ.
Thảm kịch đau thương
Đội bóng có mặt trong hai sự kiện đáng buồn của lịch sử bóng đá châu Âu. Đầu tiên là thảm họa tại sân vận động Heysel vào năm 1985, nhiều cổ động viên Liverpool quá khích đã tấn công cổ động viên của Juventus khiến một bức tường khán đài ngã sập xuống, gây ra cái chết cho 39 người. Năm 1989, đến lượt thảm họa thứ hai là Hillsborough khi có tất cả 96 cổ động viên Liverpool đã thiệt mạng do bị xô đẩy và dồn ép vào dải rào ngăn cách giữa khán đài và sân cỏ.
Lịch sử của Liverpool FC
Giai đoạn đầu tiên
Câu lạc bộ Liverpool được thành lập sau một cuộc tranh cãi của nội bộ ủy ban câu lạc bộ Everton. Everton thuê sân Anfield trong 8 năm kể từ năm 1884. Tới năm 1891, John Houlding, chủ tịch Everton đồng thời là người đứng tên hợp đồng thuê sân Anfield, mua lại và làm chủ sân vận động này. Sau đó, vì có bất đồng với Houlding, nên các thành viên còn lại của CLB Everton đành di chuyển đến một SVĐ khác là Goodison Park, ở phía bắc công viên Stanley. Khi chỉ còn lại 3 cầu thủ và một sân bóng trống không, John Houlding quyết định tự thành lập cho mình một đội bóng riêng vào ngày 15 tháng 03 năm 1892. Đó chính là lúc Liverpool ra đời.
Chính thức đổi tên
CLB Liverpool được thành lập và chơi tại sân nhà Anfield đang bị bỏ trống. Tên ban đầu của Liverpool là Everton F.C. and Athletic Grounds, Ltd (được gọi tắt là Everton Athletic). Nhưng do Liên đoàn bóng đá Anh từ chối công nhận cái tên Everton, nên CLB sau đó được đổi tên thành Liverpool Football Club vào tháng 03 năm 1892 và được chính thức công nhận vào ba tháng sau đó.
Lịch sử thi đấu
Liverpool đã lọt vào trận chung kết FA Cup đầu tiên vào năm 1914 và thất bại 1-0 trước Burnley. CLB vô địch Giải Hạng nhất hai năm liên tiếp vào các mùa 1921-1922 và 1922-1923. Nhưng Liverpool không vô địch danh hiệu nào sau đó cho tới 1946-1947, khi họ vô địch giải bóng đá quốc gia Anh lần thứ năm. Câu lạc bộ vào đến trận chung kết Cúp FA 1950 nhưng lại thua trước Arsenal. Liverpool bị xuống chơi ở giải hạng Nhì vào mùa giải 1953-1954. Trong giai đoạn này họ lại phải dừng chân ở Cúp FA trước đội khi thất bại 1-2 trước đội bóng ít tên tuổi Worcester City. Mùa 1958-59 thì Bill Shankly được bổ nhiệm làm HLV trưởng.
Các danh hiệu trong giai đoạn đầu
Đội bóng vô địch giải đấu Lancashire trong mùa giải đầu tiên, và được lên chơi ở Giải bóng đá Hạng nhì Anh trong mùa giải sau đó. Họ tiếp tục vô địch và được thăng hạng lên Giải bóng đá Hạng nhất Anh (hay còn được gọi là giải vô địch quốc gia Anh, đến năm 1992 giải đấu mới chính thức đổi tên thành Giải bóng đá Ngoại hạng Anh). Liverpool vô địch Giải Hạng Nhất lần đầu vào mùa giải 1900-1901, và tiếp tục vô địch lần nữa vào mùa giải 1905-1906.
Dưới thời Bill Shankly và Bob Paisley
Liverpool đang suy yếu, với trang thiết bị luyện tập cũ nát, đội ngũ ban huấn luyện kém cỏi thì Bill Shankly được bổ nhiệm làm huấn luyện viên trưởng của CLB. Ông đã ra quyết định sa thải 24 cầu thủ và thành lập một “phòng đặc biệt” ở Anfield. Ban đầu nó được gọi là Boot Room, nơi các cầu thủ cùng huấn luyện viên có thể bàn bạc chiến thuật và uống trà. Tại đây, Bill Shankly cùng các thành viên ban đầu của phòng Boot Room gồm: Joe Fagan, Reuben Bennett và Bob Paisley, bắt đầu quá trình cải tổ lại đội bóng.
Những thành công dưới thời Shankly
Với sợ hồi sinh từ Bill Shankly, CLB đã lên lại Giải Hạng nhất vào mùa giải 1961-1962. Họ vô địch lần đầu tiên sau 17 năm vào mùa 1963-1964 sau đó. Mùa 1965-1966, họ vô địch Giải Hạng nhất rồi đoạt luôn chiếc Cúp FA đầu tiên, nhưng sau đó thất bại trước Borussia Dortmund trong trận chung kết Cúp các đội đoạt cúp. Mùa giải 1972-1973 đội bóng vô địch Giải Hạng nhất, đoạt Cúp UEFA – đây là cúp châu Âu đầu tiên trong lịch sử của Liverpool. Tiếp đó, vào mùa giải 1973-1974, Liverpool vô địch Cúp FA.
Sau 15 năm dẫn dắt đạt được nhiều danh hiệu, đưa Liverpool trở thành một trong những câu lạc bộ bóng đá hàng đầu châu Âu, tháng 07 năm 1974, Shankly tuyên bố nghỉ hưu, ông rời đội bóng và trợ lý Bob Paisley lên thay.
Liverpool FC dưới thời Bob Paisley
Paisley thậm chí còn đạt được nhiều thành công hơn cả Bill Shankly, khi giúp đội bóng vô địch Giải Hạng nhất và Cúp UEFA ngay trong mùa giải thứ hai ông làm HLV 1975-1976. Mùa tiếp đó, họ bảo vệ thành công ngôi vị vô địch Giải Hạng nhất, đoạt được cúp vô địch châu Âu (Cúp C1) đầu tiên trong lịch sử đội bóng. Nhưng mùa giải này, họ lại để thua trong trận chung kết Cúp FA, bỏ lỡ cơ hội đoạt cú ăn ba lịch sử. Mùa 1977-1978, Liverpool bảo vệ thành công ngôi vô địch Cúp C1. Và một lần nữa bảo vệ thành công danh hiệu vô địch Giải Hạng với 68 điểm, chỉ để thủng lưới 16 bàn trong 42 trận.
Thống kê danh hiệu dưới thời Bob Paisley
Trong 9 mùa bóng Paisley dẫn dắt Liverpool, Bob Paisley giúp đội bóng có tổng cộng 21 danh hiệu cao quý. Bao gồm: 3 Cúp C1, 1 Cúp UEFA, 6 chức vô địch Giải Hạng nhất (sau này được đổi tên thành Premier League), 3 Cúp Liên Đoàn cùng nhiều danh hiệu nhỏ khác. Chức vô địch duy nhất ông không thể giành được là Cúp FA. Trong kỉ nguyên của Paisley đã sản sinh ra các ngôi sao lớn như: Graeme Souness, Ian Rush, Alan Hansen và Kenny Dalglish (The King).
Sự tiếp quản từ Joe Fagan
HLV Paisley rời băng ghế huấn luyện vào năm 1983 và (cũng giống như đồng nghiệp cũ Shankly đã làm), ông để lại chiếc ghế huấn luyện cho thành viên của Boot Room, trợ lý huấn luyện viên của chính ông Joe Fagan. Liverpool có được ngay cú ăn 3 lịch sử trong mùa giải 1983-1984 – mùa đầu tiên Fagan tiếp quản. Bao gồm: vô địch Giải Hạng nhất, vô địch Cúp Liên Đoàn và vô địch Cúp C1. Liverpool cũng trở thành đội bóng Anh đầu tiên giành được cú ăn ba trong một mùa giải.
Liverpool chơi trận chung kết Cúp C1 lần nữa vào ngày 29 tháng 5 năm 1985, trận gặp Juventus trên sân vận động Heysel, thành phố Brussels, nước Bỉ. Đây cũng là nơi xảy ra thảm họa sau này được gọi với cái tên là thảm họa sân vận động Heysel. Tuyên nhiên trận đấu vẫn được diễn ra bất chấp sự phản đối từ phía CLB Liverpool lẫn Juventus. Liverpool thất bại với tỷ số 0-1. HLV Joe Fangan cũng tuyên bố nghỉ hưu ngay khi kết thúc thảm họa trên.
Kenny Dalglish được bổ nhiệm kim chức HLV trưởng cùng cầu thủ của câu lạc bộ vì sự ra đi đột ngội của Joe Fangan
Thời của Souness – Evans và Houllier
Souness – Evans
Ngày 22 tháng 02 năm 1991, Dalglish bất ngờ tuyên bố từ chức HLV trưởng CLB, người thay thế ông là Graeme Souness. Ngoại trừ đoạt được Cúp FA vào năm 1992, Souness không giành thêm được bất kỳ danh hiệu nào khác và bị thay thế bởi cựu thành viên Boot Room là Roy Evans. Evans cũng giống như người đồng nghiệp trước. Chức vô địch Cúp Liên đoàn năm 1995 là danh hiệu duy nhất của ông. Nhưng trong nhiệm kỳ của mình, Evans đã kịp để lại chiến thắng 4-3 trước Newcastle United ở Anfield ngày 03 tháng 04 năm 1996 được đánh giá là trận đấu hay nhất lích sử của Giải Ngoại hạng trong 10 năm.
Trong giai đoạn này, Liverpool tích cực sử dụng nhiều cầu thủ trẻ do họ tự đào tạo và xây dựng một lối chơi tấn công đẹp mắt. Đặc biệt là bộ ba Spice Boys nổi tiếng gồm: Jamie Redknapp, Steve McManaman, và Robbie Fowler. Sau đó Liverpool bổ sung thêm các nhân tố tấn công mới như Patrik Berger, Stan Collymore và đặc biệt là chân sút trẻ tuổi Michael Owen.
Houllier
Sau sự ra đị của Evans vào tháng 11 năm 1998, Gérard Houllier được bổ nhiệm làm tân huấn luyện viên của câu lạc bộ. Trong năm 2001, Liverpool giành được giành được cú ăn ba gồm: Cúp FA, Cúp Liên đoàn và Cúp UEFA; cùng với 2 danh hiệu khác là Siêu cúp châu Âu và Siêu cúp Anh. Tuy nhiên Houllier phải thực hiện một ca phẫu thuật tim trong mùa giải 2001-2002 và Liverpool về đích vị trí thứ nhì tại Giải Ngoại hạng, sau CLB Arsenal. Mùa 2002-2003, họ giành được thêm Cúp Liên đoàn, nhưng tới mùa sau đó với lối chơi không thuyết phục, liverpool đã không dành thêm bất kì danh hiệu nào.
Thời kỳ “hoàng kim” Benitez
Thành tích nổi bậc
Khi Benitez lên dẫn dắt CLB, hàng loạt cầu thủ Tây Ban Nha đã đến Liverpool chơi bóng. Có những cái tên lớn như: Xabi Alonso, Luis García. Tại đấu trường quốc nội, Liverpool thi đấu không thực sự tốt, họ xếp thứ 5 chung cuộc trên bảng xếp hạng vào cuối mùa. Ở cúp FA, câu lạc bộ cũng lọt đến trận chung kết, nhưng thất bại 2-3 trước Cheasel sau 120 phút thi đấu. Câu lạc bộ cũng sớm bị loại khỏi Cúp liên đoàn sau khi bất ngờ để thua đội bóng ít tên tuổi Burnley với tỉ số 0-1.
Nhưng ở đấu trường châu Âu, Liverpool thể hiện một bộ mặt hoàn toàn khác. Ở vòng bảng, Lữ đoàn Đỏ xếp thứ 2 sau AS Monaco. Sau đó Liverpool lần lượt vượt qua các đối thủ nặng ký như Bayer Leverkusen, Juventus, và trả được món nợ tại trận chung kết Cúp FA khi loại Chelsea ở bán kết để tiến vào trận chung kết gặp AC Milan.
Trận chung kết diễn ra trên sân vận động Istanbul huyền thoại (Thổ Nhĩ Kỳ). Trong hiệp 1, Liverpool đã để lọt lưới 3 bàn, và trong hiệp 2, Đội bóng đến từ thành phố cảng đã gỡ hòa chóng vánh 3-3, đưa trận đấu trở về vạch xuất phát. Qua đó cầm chân Milan vào loạt sút luân lưu. Trên chấm luân lưu, Liverpool đã xuất sắc hơn và giành chiến thắng với tỉ số 3-2. Qua đó lên ngôi vô địch châu Âu lần thứ 5.
Sự hình thành của “Ông vua đấu cup”
Mùa tiếp theo, Liverpool về đích ở vị trí thứ 3 giải Ngoại Hạng Anh với 82 điểm, số điểm cao nhất mà họ giành được kể từ năm 1988. Họ vô địch Cúp FA bằng việc đánh bại CLB West Ham United trên chấm luân lưu sau khi hiệp chính kết thúc với tỉ số 3-3.
Benitez đã thực việc cải cách khi giảm dần những nhân tố Đông Âu trong đội hình của Liverpool như: Milan Baros, Dudek, Vladimír Šmicer… Thay vào đó ông chiêu mộ nhiều cầu thủ gốc La-tinh trẻ khác như: Luis Garcia, Fabio Aurelio, Javier Mascherano, Xabi Alonso…. và đặc biệt là ngôi sao Fernando Torres. Ông xây dựng lối chơi tấn công dựa trên bộ đôi vanh danh một thời Gerrard-Torres. Sự thay đổi này đã được báo giới Anh đặt tên là Rafalution, một cách chơi chữ của từ revolution, nghĩa là cuộc cách mạng của Rafa.
Mùa giải 2006-2007, đội bóng được mua lại bởi hai doanh nhân người Mỹ là George Gillet và Tom Hicks với mức giá 218,9 triệu bảng Anh. Đội bóng lọt vào trận chung kết Cup C1 nhưng thất bại trước AC Milan. Ở đấu trường quốc nội, CLB về nhì Sau MU với 86 điểm.
Tuy giai đoạn này, Liverpool FC không giành được nhiều danh hiệu nhưng đội lại có lối chơi tấn công rực lửa và hấp dẫn tại đấu trường châu Âu. Họ có những trận đấu đẹp, kịch tích và những chiến thắng thuyết phục trước các đội bóng lớn của châu Âu và nước Anh. CLB làm mưa làm gió trong giai đoạn này, khiến cho báo chí thường nhắc đến Liverpool với cái tên “Vua đấu cúp”.
Sự ra đi của Rafael Benitez
Mùa giải 2009-2010, Liverpool không đoạt được bất kì danh hiệu nào và thất bại trong việc tìm một suất dự Champions League (xếp thứ 7 NHA). Đây là nguyên nhân dẫn đến sự ra đi của HLV Rafael Benitez vào sau mùa giải. Roy Hodgson thay thế Benitez lên dẫn dắt CLB, nhưng lối chơi mà ông áp dụng lại không phù hợp khiến đội bóng liên tục nằm ở nửa dưới bảng xếp hạng. Việc này đã làm mất đi nhà tài trợ chính của đội bóng
Tháng 10 năm 2010 CLB chia tay với nhà tài trợ Carlsberg sau nhiều năm hợp tác. John W. Henry chủ sở hữu của Boston Red Sox và của Fenway Sports Group đã mua lại câu lạc bộ.
Thời kỳ Kenny Dalglish – Brendan Rodgers
Kenny Dalglish
Ngày 08 tháng 01 năm 2011, Roy Hodgson rời Liverpool, người thay thế ông là cựu cầu thủ của CLB Kenny Dalglish, đúng như nguyện vọng của nhiều cổ động viên Liverpool. Dalglish giúp Liverpool chấm dứt chuỗi 6 năm không có danh hiệu với việc vô địch Cúp Liên đoàn 2012. Tuy nhiên, sau khi đội bóng kết thúc Giải Ngoại hạng 2011-2012 ở vị trí thứ 8, thảm hại nhất trong 18 năm gần nhất, Dalglish đã bị sa thải vào tháng 05 năm 2012.
Brendan Rodgers
Để thay thế Kenny Dalglish, Brendan Rodgers được lựa chọn cho vị trí thuyền trưởng của Liverpool. Mùa giải đầu tiên ông dẫn dắt, Liverpool kết thúc ở vị trí thứ 7 Premier League, vào được vòng 32 đội ở đấu trường Europa League. Mùa tiếp theo, Liverpool có được bước tiến vượt bậc về thứ hạng khi họ cán đích chỉ ở vị trí thứ sau nhà vô địch Manchester City với 101 bàn thắng, đồng có ve cúp C1 lần đầu tiên sau nhiều năm chờ đợi.
Mùa giải 2014-2015 là mùa giải thứ 3 của Brendan Rodgers ở Liverpool. Nhưng đội bóng thi đấu không thật sự thuyết phục khi bị loại ở vòng bảng UEFA Champions League. Còn ở giải ngoại hạng, Liverpool về đích ở vị trí thứ 8, đây là năm trắng tay thứ 3 liên tiếp của Lữ Đoàn Đỏ. Niềm an ủi duy nhất với Lữ đoàn đỏ là chiếc vé dự Europa League vào mua sau. Cùng với đó là nỗi buồn sau sự ra đi của huyền thoại đội trưởng Steven Gerrard.
Dù đã mạnh tay ở thị trường chuyển nhượng, đem về những cái tên chất lương ở mùa giải 2015-2016 nhưng Liverpool vẫn cho ngươi hâm mộ nối tiếp sự thất vọng. HLV Brendan Rodgers đã bị sa thải ngay sau khi kết thúc trận derby Merseyside ở vòng 8 giả NHA với Everton. Thay thế ông là cựu huấn luyện viên của CLB Dortmund, ông Jürgen Klopp.
Kỷ nguyên “Mới” của Liverpool F.C dưới thời Jürgen Klopp
Vào ngày 09 tháng 10 năm 2015, trang chủ của Liverpool chính thức thông báo: CLB đã bổ nhiệm chiến lược gia người Đức, Jürgen Klopp làm huấn luyện viên trưởng sau khi sa thải HLV Brendan Rodgers. Liverpool đã có dấu hiệu khởi sắc dưới thời tân HLV người Đức. Lữ Đoàn Đỏ có những chiến thắng hủy diệt trước Chelsea với tỷ số 3-1, 4-1 trước Manchester City, và hủy diệt Southampton 6-1 ở Cúp liên đoàn trong mùa giải 2015-2016.
Mùa giải 2015-2016
Ngày 15 tháng 4 năm 2016, Liverpool tiếp đón Dortmund trong khuôn khổ lượt về tứ kết Europa League với lợi thế trận hòa 1-1 trên sân khách ở lượt đi. Trận đấu đầy cảm xúc làm gợi lại đêm Istanbul huyền diệu khi Liverpool đã lội ngược dòng thành công với tỉ số 4-3 sau khi bị Dortmund dẫn trước 2-0 từ rất sớm. Đây xứng đáng là một cuộc lội ngược dòng được ghi vào lịch sử CLB.
Tại bán kết Liverpool gặp đội bóng khó chơi đến từ Tây Ban Nha, Villarreal. Ở trận lượt đị, mặc dù thi đấu tốt nhưng The Kop phải đón nhận bàn thua ngay ở những phút chót và đành chấp nhận thất bại 0-1. Tuy nhiên ở trận lượt về, Liverpool của HLV Klopp đã thi đấu xuất sắc để lật ngược tình thế với chiến thắng với cách biệt 3-0 để tiến vào trận chung kết trước.Ở trận đấu cuối cùng Liverpool đã thất bại 1-3 trước CLB đến từ Tây Ban Nha là Sevilla. Dù thất bại, nhưng Jürgen Klopp đã chiếm nhiều cảm tình từ phía người hâm mộ bằng một lối chơi kỷ luật và rực lửa.
Mùa giải 2016-2017
Vào mùa giải 2016-2017, Liverpool đã gia hạn với huấn luyện viên Jürgen Klopp thêm 6 năm, và mang về những cái tên chất lượng trên hàng công như tiền đạo Sadio Mané, Ai Cập Mohamed Salah từ A.S. Roma. Với bộ tam tấu Salah – Firmino – Mané, Liverpool xuất sắc đi trên tới trận chung kết cúp C1, nhưng thất bại đầy nghiệt ngã trước đội bóng hoàng gia Tây Ban Nha Real Madrid. Cũng tại mùa giải này, Liverpool kết thú ở vị trí thứ 4 ở đấu trường quốc nội NHA.
Mùa 2018-2019
Đến mùa giải 2018-2019, Liverpool xuất sắc sau khi bỏ xa Manchester City tận 7 điểm để nắm chắc ngôi đầu Premier League. Nhưng sau đó là cú sẩy chân trong tháng thứ 3 khiến họ rơi xuống ở vị trí thứ 2. Liverpool FC về nhì với 97 điểm có được, số điểm cao nhất trong lịch sử của đội bóng, này nhưng vẫn ít hơn đội vô địch là Manchester City 1 điểm.
Tại Champions League, Liverpool lần lượt vượt qua Bayern Munich, rồi Porto và sau đó là Barcelona. Trận gặp Barcelona tại lượt về bán kết Champions League là một trong những trận đấu ngược dòng kinh điển trong lịch sử Champions League. Sau khi thất bại ở lượt đi tại Nou Camp với tỉ số (3-0). Đội bóng đã ngược dòng không tưởng với đổi hình không phải là tốt nhất tại trận lượt về trên sân Anfield với tỉ số (4-0), bởi cú đúp của 2 cầu thủ Origi và Georginio Wijnaldum để vào đến trận chung kết gặp Tottenham.
Ở trận chung kết diễn ra tại thành phố Madrid, với hai pha lập công của Salah ở phút thứ 2 và Origi ở phút thứ 87. Lữ Đoàn Đỏ đã đánh bại đối thủ với tỷ số 2-0, qua đó mang về danh hiệu đầu tiên dưới thời HLV Jürgen Klopp và là danh hiệu thứ 6 cho đội bóng tại đấu trường này. Jürgen Klopp cũng thoát khỏi biệt danh “Kẻ về nhì vĩ đại”.
Tóm tắt quá trình hoạt động của Liverpool F.C
Giai đoạn 1892-1959
- 1892, Thành lập CLB bóng đá Liverpool.
- 1892-1993 – Giải vô địch Lancashire: vô địch.
- 1893-1894 – Giải Hạng nhì: vô địch.
- 1894-1895 – Giải Hạng nhất: thứ 16, xuống lại Giải Hạng nhì.
- 1895-1896 – Giải Hạng nhì: vô địch.
- 1896-1897 – Giải Hạng nhất: đứng thứ 5.
- 1897-1898 – Giải Hạng nhất: đứng thứ 9.
- 1898-1899 – Giải Hạng nhất: đứng thứ 2.
- 1899-1900 – Giải Hạng nhất: thứ 10.
- 1900-1901 – Giải Hạng nhất: vô địch, lần đầu tiên.
- 1901-1902 – Giải Hạng nhất: đứng thứ 11.
- 1902-1903 – Giải Hạng nhất: đứng thứ 5.
- 1903-1904 – Giải Hạng nhất: đứng thứ 17.
- 1904-1905 – Giải Hạng nhì: vô địch.
- 1905-1906 – Giải Hạng nhất: vô địch, lần thứ 2.
- 1906-1907 – Giải Hạng nhất: đứng thứ 17.
- 1907-1908 – Giải Hạng nhất: đứng thứ 8.
- 1908-1909 – Giải Hạng nhất: đứng thứ 16.
- 1909-1910 – Giải Hạng nhất: đứng thứ 2.
- 1910-1911 – Giải Hạng nhất: đứng thứ 13.
- 1911-1912 – Giải Hạng nhất: đứng thứ 17.
- 1912-1913 – Giải Hạng nhất: đứng thứ 12.
- 1913-1914 – Giải Hạng nhất: đứng thứ 16;
- 1914-1915 – Giải Hạng nhất: đứng thứ 13.
- 1915-1919 – Đình chỉ hoạt động do Chiến tranh thế giới lần thứ nhất.
Sau chiến tranh thế giới
- 1919-1920 – Giải Hạng nhất: đứng thứ 4.
- 1920-1921 – Giải Hạng nhất: đứng thứ 4.
- 1921-1922 – Giải Hạng nhất: vô địch, lần thứ 3.
- 1922-1923 – Giải Hạng nhất: vô địch, lần thứ 4.
- 1923-1924 – Giải Hạng nhất: đứng thứ 12.
- 1924-1925 – Giải Hạng nhất: đứng thứ 4.
- 1925-1926 – Giải Hạng nhất: đứng thứ 7.
- 1926-1927 – Giải Hạng nhất: đứng thứ 9.
- 1927-1928 – Giải Hạng nhất: đứng thứ 16.
- 1928-1929 – Giải Hạng nhất: đứng thứ 5.
- 1929-1930 – Giải Hạng nhất: đứng thứ 12.
- 1930-1931 – Giải Hạng nhất: đứng thứ 9.
- 1931-1932 – Giải Hạng nhất: đứng thứ 10.
- 1932-1933 – Giải Hạng nhất: đứng thứ 14.
- 1933-1934 – Giải Hạng nhất: đứng thứ 18.
- 1934-1935 – Giải Hạng nhất: đứng thứ 7.
- 1935-1936 – Giải Hạng nhất: đứng thứ 19.
- 1936-1937 – Giải Hạng nhất: đứng thứ 18.
- 1937-1938 – Giải Hạng nhất: đứng thứ 11.
- 1938-1946 – Đình chỉ hoạt động do Chiến tranh thế giới lần thứ hai.
- 1946-1947 – Giải Hạng nhất: vô địch, lần thứ 5.
- 1947-1948 – Giải Hạng nhất: đứng thứ 11.
- 1948-1949 – Giải Hạng nhất: đứng thứ 12.
- 1949-1950 – Giải Hạng nhất: đứng thứ 8.
- 1950-1951 – Giải Hạng nhất: đứng thứ 9.
- 1951-1952 – Giải Hạng nhất: đứng thứ 11.
- 1952-1953 – Giải Hạng nhất: đứng thứ 17.
- 1953-1954 – Giải Hạng nhất: đứng thứ 22.
- 1954-1955 – Giải Hạng nhì: đứng thứ 11.
- 1955-1956 – Giải Hạng nhì: đứng thứ 3.
- 1956-1957 – Giải Hạng nhì: đứng thứ 3.
- 1957-1958 – Giải Hạng nhì: đứng thứ 4.
- 1958-1959 – Giải Hạng nhì: đứng thứ 4.
Giai đoạn 1959-1985
- 1959-1960 – Giải Hạng nhì: đứng thứ 3.
- 1960-1961 – Giải Hạng nhì: đứng thứ 3.
- 1961-1962 – Giải Hạng nhì: vô địch.
- 1962-1963 – Giải Hạng nhất: đứng thứ 8.
- 1963-1964 – Giải Hạng nhất: vô địch, lần thứ 6.
- 1964-1965:
- Giải Hạng nhất: đứng thứ 7
- Cúp FA: đoạt chức vô địch.
- Siêu cúp Anh: đoạt chức vô địch
- 1965-1966:
- Giải Hạng nhất: vô địch – lần thứ 7;
- Siêu cúp Anh: vô địch – lần thứ 2.
- 1966-1967:
- Giải Hạng nhất: đứng thứ 5;
- Siêu cúp Anh: vô địch – lần thứ 3.
- 1967-1968 – Giải Hạng nhất: đứng thứ 3.
- 1968-1969 – Giải Hạng nhất: đứng thứ 2.
- 1969-1970 – Giải Hạng nhất: đứng thứ 5.
- 1970-1971 – Giải Hạng nhất: đứng thứ 5.
- 1971-1972 – Giải Hạng nhất: đứng thứ 3.
- 1972-1973:
- Giải Hạng nhất: vô địch – lần thứ 8;
- Cúp UEFA: vô địch – lần đầu tiên.
- 1973-1974:
- Giải Hạng nhất: đứng thứ 2;
- Cúp FA: vô địch, lần thứ 2.
- 1974-1975:
- Giải Hạng nhất: đứng thứ 3;
- Siêu cúp Anh: vô địch – lần thứ 4.
Thời đại của Bob Paisley
- 1975-1976:
- Giải Hạng nhất: vô địch, lần thứ 9;
- Cúp UEFA: vô địch – lần thứ 2.
- 1976-1977:
- Giải Hạng nhất: vô địch, lần thứ 10
- Siêu cúp Anh: vô địch -lần thứ 5.
- Cúp C1: vô địch – lần đầu tiên.
- 1977-1978:
- Giải hạng nhất: đứng thứ 2;
- Siêu cúp Anh: vô địch – lần thứ 6;
- Cúp C1: vô địch, lần thứ 2;
- Siêu cúp châu Âu: vô địch – lần đầu tiên.
- 1978-1979 – Giải Hạng nhất: vô địch – lần thứ 11.
- 1979-1980:
- Giải Hạng nhất: vô địch – lần thứ 12;
- Siêu cúp Anh: vô địch – lần thứ 7.
- 1980-1981:
- Giải Hạng nhất: đứng thứ 5;
- Cúp Liên đoàn: vô địch – lần đầu tiên;
- Siêu cúp Anh: vô địch – lần thứ 8;
- Cúp C1: vô địch, lần thứ 3.
- 1981-1982
- Giải Hạng nhất: vô địch – lần thứ 13;
- Cúp Liên đoàn: vô địch – lần thứ 2.
- 1982-1983:
- Giải Hạng nhất: vô địch – lần thứ 14;
- Cúp Liên đoàn: vô địch – lần thứ 3.
- Siêu cúp Anh: vô địch – lần thứ 9.
- 1983-1984:
- Giải Hạng nhất: vô địch, lần thứ 15;
- Cúp Liên đoàn: vô địch – lần thứ 4;
- Cúp C1: vô địch – lần thứ 4;
- 1984-1985 – Giải Hạng nhất: đứng thứ 2.
Giai đoạn 1985-hiện tại
- 1985-1986:
- Giải Hạng nhất: vô địch – lần thứ 16;
- Cúp FA: vô địch – lần thứ 3.
- 1986-1987:
- Giải Hạng nhất: đứng thứ 2;
- Siêu cúp Anh: vô địch – lần thứ 10.
- 1987-1988 – Giải Hạng nhất: vô địch – lần thứ 17.
- 1988-1989:
- Giải Hạng nhất: đứng thứ 2;
- Cúp FA: vô địch, lần thứ 4;
- Siêu cúp Anh: vô địch, lần thứ 11.
- 1989-1990:
- Giải Hạng nhất: vô địch – lần thứ 18;
- Siêu cúp Anh: vô địch, lần thứ 12.
- 1990-1991:
- Giải Hạng nhất: đứng thứ 2;
- Siêu cúp Anh: vô địch – lần thứ 13.
- 1991-1992:
- Giải Ngoại hạng: đứng thứ 6;
- Cúp FA: vô địch – lần thứ 5.
- 1992-1993 – Premier League: đứng thứ 6.
- 1993-1994 – Premier League: đứng thứ 6.
- 1994-1995:
- Premier League: đứng thứ 8;
- Cúp Liên đoàn: vô địch, lần thứ 5.
- 1995-1996 – Premier League: đứng thứ 4.
- 1996-1997 – Premier League: đứng thứ 3.
- 1997-1998 – Premier League: đứng thứ 4.
- 1998-1999 – Premier League: đứng thứ 7.
- 1999-2000 – Premier League: đứng thứ 4.
- 2000-2001:
- Premier League: đứng thứ 3;
- Cúp FA: vô địch – lần thứ 6.
- Cúp Liên đoàn: vô địch – lần thứ 6.
- Cúp UEFA: vô địch – lần thứ 3.
- 2001-2002:
- Premier League: đứng thứ 4;
- Siêu cúp Anh: vô địch – lần thứ 14;
- Siêu cúp châu Âu: vô địch – lần thứ 2.
- 2002-2003:
- Premier League: đứng thứ 5;
- Cúp Liên Đoàn: vô địch – lần thứ 7.
Gian đoạn “Ông Vua Đấu Cúp”
- 2003-2004 – Giải Ngoại hạng: đứng thứ 4;
- 2004-2005:
- Premier League: đứng thứ 5;
- Cúp C1: vô địch – lần thứ 5.
- 2005-2006:
- Premier League: đứng thứ 3;
- Cúp FA: vô địch – lần thứ 7;
- Siêu cúp châu Âu: vô địch – lần thứ 3..
- 2006-2007:
- Premier League: đứng thứ 3;
- Siêu cúp Anh: vô địch – lần thứ 15.
- 2007-2008 – Premier League: đứng thứ 4.
- 2008-2009 – Premier League: đứng thứ 2.
- 2009-2010 – Premier League: đứng thứ 7.
- 2010-2011 – Premier League: đứng thứ 6.
- 2011-2012:
- Premier League: đứng thứ 8;
- Cúp Liên đoàn: vô địch – lần thứ 8.
- 2012-2013 – Premier League: đứng thứ 7.
- 2013-2014 – Premier League: đứng thứ 2.
- 2014-2015 – Premier League: đứng thứ 6.
- 2015-2016 – Premier League: đứng thứ 8.
- 2016-2017 – Premier League: đứng thứ 4.
- 2017-2018 – Premier League: đứng thứ 4.
- 2018-2019:
- Giải Ngoại hạng: đứng thứ 2;
- Cúp C1: vô địch – lần thứ 6.
Biểu thượng và màu áo của Lữ Đoàn Đỏ
Biểu Tượng (Logo của Liverpool):
Biểu tượng ban đầu
Chính giữa của biểu tượng Liverpool FC là hình một con chim đang vỗ cánh, con chim này có tên là Liver Bird. Liver Bird là hình ảnh đại diện của thành phố cảng Liverpool. Liver Bird là con vật được tưởng tượng, được pha trộn giữa chim đại bàng và chim cốc hay là một con chim bối cá được cách điệu.
Tại thành phố Liverpool và hình ảnh của Liver Brid đã xuất hiện trên con dấu tòa thị chính. Trên nóc của tòa nhà Liver Building cũng có hai chú Liver Bird rất lớn được đúc bằng đồng. Người Liverpool cho rằng Liver Bird đem lại những điều may mắn cho thành phố cảng.
Khi Liverpool F.C được thành lập, Liver Bird được chọn làm linh vật tượng trưng làm ý tưởng cho việc thiết kế logo Liverpool. Với ý nghĩa và đem lại may mắn cho câu lạc bộ.
Sự cải tiến theo thời gian
Ban đầu việc thiết kế logo của CLB chỉ đơn giản là hình của chú chim Liver Bird màu trắng ở giữa. Còn những chi tiết khác dần được bổ xung theo năm tháng:
- Màu đỏ là màu cờ và sắc áo của câu lạc bộ.
- Dòng chữ “You’ll never walk alone” là tên bài hát truyền thống của Liverpool được sướng lên bởi các CĐV trên mọi trận đấu.
- Hai ngọn lửa nhỏ để tưởng nhớ cho 96 nạn nhân thiệt mạng trong thảm họa Hillsbrough.
Màu Áo của Liverpool
Liverpool F.C là câu lạc bộ giàu truyền thống bậc nhất nước Anh, với những thành tích trong quá khứ và lối đá máu lửa ở thời điểm hiện tại đủ để thu hút mọi sự quan tâm của người hâm mộ. Trong thời kỳ đầu thành lập, Đội bóng mang màu áo tương tự với màu áo của CLB Eveton hiện tại. Những chiếc áo đấu màu xanh và trắng được sử dụng cho đến những năm 1894.
Cho đến khi người quản lý – HLV huyền thoại Bill Shankly quyết định đổi màu áo thành màu đỏ với mục đích ban đầu dùng để áp chế tâm lý của đối thủ. Và cuối cùng, Màu áo đỏ trở thành màu áo truyền thống của Liverpool cho đến tận thời điểm bây giờ.
Sân vận động Anfield
SVĐ Anfield được xây dựng vào năm 1884, trên khu đất kề bên Công viên Stanley. Nằm 2 dặm (3 km) từ trung tâm thành phố Liverpool, ban đầu nó được sử dụng bởi CLB Everton trước xảy ra cuộc tranh cãi về giá thuê với chủ sân Anfield John Houlding. Sau đó, Houlding thành lập Liverpool vào năm 1892 và câu lạc bộ đã chơi ở SVĐ Anfield kể từ đó. Sức chứa của sân vận động lúc đầu là 20.000, mặc dù chỉ có 100 khán giả tham dự trận đấu đầu tiên của Liverpool tại Anfield.
Hiện nay, Anfield đã có nhiều sự thay đổi. Cấu trúc sân được chia thành các phần chính như sau: Spion Kop là khán đài chính, Centenary Stand là khán đài lâu năm và con đường Anfield. Sân có sức chứa cực lớn là 53.974 khán giả. Theo ước tính nó có thể cho 60.000 người đến sân để cổ vũ.
Bài hát truyền thống “You will never walk alone”: Bài ca của niềm hi vọng
Bài hát truyền thống của Liverpool F.C là “You’ll Never Walk Alone” tạm dịch là: Bạn sẽ không bao giờ bước đi đơn độc. Đây vốn là một ca khúc được viết cho một vở kịch mang tên Carousel tại sân khấu kịch Broadway vào năm 1945, được Oscar Hammerstein II sáng tác phần lời và Richard Rodgers sáng tác phần nhạc.
Bài hát này được sáng tác cho một chương trình ca nhạc cùng tên, nhằm quyên tiền ủng hộ cho các nạn nhân của thảm hoạ tại sân vận động Bradford vào năm 1985. Bài hát thường xuyên được người hâm mộ đội Liverpool cất lên để cổ vũ đội nhà và cũng được hát bởi cổ động viên của nhiều câu lạc bộ khác trên thế giới.
Trước ca khúc “You’ll Never Walk Alone”, bài hát truyền thống của Lữ đoàn đỏ là “Hurrah for the Reds”, được sáng tác bởi W.Seddon (15 năm sau khi câu lạc bộ được thành lập).
Văn hóa bóng đá của Liverpool F.C
Là một trong những CLB thành công nhất trong lịch sử bóng đá Anh.Trong làng túc cầu của sứ sở sương mù, Liverpool là hình tượng trong đời sống văn hoá bóng đá của NHM ở nơi đây. Ở thành phố cảng Liverpool, mọi người luôn sống với bóng đá. Nó là một phần không thể thiếu ở nơi đây.
Các bạn có thể tưởng tượng, Liverpool là một trong những câu lạc bộ sở hữu cổ động viên đông đảo trung thành nhất thế giới, trung bình lượng cổ động viên tới sân thuộc hàng cao nhất ở châu Âu.
Ở Liverpool bạn có thể nghe gia điệu bài hát “You’ll Never Walk Alone” vang lên ở khắp mọi nơi. Trên những bữa tiệc, trên những buổi thánh lễ trọng đại nhất của một con người. Hay trên cả những đám tang để tiễn đưa những người đã mất. Nó cho ta thấy tình yêu bóng đá và với Lữ đoàn đỏ ở nơi đây nồng nhiệt như thế nào.
Đội hình – Danh sách các cầu thủ hiện tại của Liverpool
Cầu thủ đang trong CLB
Số áo |
Vị trí |
Cầu thủ |
1 | TM | Alisson |
2 | HV | Nathaniel Clyne |
3 | TV | Fabinho |
4 | HV | Virgil van Dijk (đội trưởng thứ 3) |
5 | TV | Georginio Wijnaldum (đội trưởng thứ 4) |
6 | HV | Dejan Lovren |
7 | TV | James Milner (đội phó) |
8 | TV | Naby Keïta |
9 | TĐ | Roberto Firmino |
10 | TĐ | Sadio Mané |
11 | TĐ | Mohamed Salah |
12 | HV | Joe Gomez |
13 | TM | Adrián |
14 | TV | Jordan Henderson(đội trưởng) |
15 | TV | Alex Oxlade-Chamberlain |
20 | TV | Adam Lallana |
23 | TV | Xherdan Shaqiri |
24 | TĐ | Rhian Brewster |
26 | HV | Andrew Robertson |
27 | TĐ | Divock Origi |
32 | HV | Joël Matip |
40 | TV | Ryan Kent |
48 | TV | Curtis Jones |
62 | TM | Caoimhin Kelleher |
65 | HV | Yasser Larouci |
66 | HV | Trent Alexander-Arnold |
67 | TĐ | Harvey Elliott |
72 | HV | Sepp van den Berg |
Cầu thủ cho mượn
Vị trí |
Cầu thủ |
TV |
Marko Grujić (đến Hertha BSC thời hạn tới 30 tháng 6 năm 2020)
|
TV | Sheyi Ojo (đến Rangers – thời hạn tới 30 tháng 6 năm 2020) |
TM | Loris Karius (đến Beşiktaş thời hạn tới 30 tháng 6 năm 2020) |
TV | Allan (đến Fluminense thời hạn 31 tháng 12 năm 2019) |
TM |
Kamil Grabara (đến Huddersfield Town thời hạn tới 30 tháng 6 năm 2020)
|
TĐ | Taiwo Awoniyi (đến Mainz 05 thời hạn tới 30 tháng 6 năm 2020) |
HV |
Nathaniel Phillips (đến VfB Stuttgart thời hạn tới 30 tháng 6 năm 2020)
|
TV |
Ben Woodburn (đến Oxford United F.C thời hạn tới 30 tháng 6 năm 2020)
|
TV |
Ovie Ejaria (đến Reading F.C thời hạn tới 30 tháng 6 năm 2020)
|
TV |
Harry Wilson (đến A.F.C. Bournemouth thời hạn tới 30 tháng 6 năm 2020)
|
Cầu thủ xuất sắc nhất mùa giải trong lịch sử Liverpool F.C
Mùa giải |
Cầu thủ |
Quốc tịch |
Vị trí |
2001–02 | Sami Hyypiä | Phần Lan | Hậu vệ |
2002–03 | Danny Murphy | Anh | Tiền vệ |
2003–04 | Steven Gerrard | Anh | Tiền vệ |
2004–05 | Jamie Carragher | Anh | Hậu vệ |
2005–06 | Steven Gerrard | Anh | Tiền vệ |
2006–07 | Steven Gerrard | Anh | Tiền vệ |
2007–08 | Fernando Torres | Tây Ban Nha | Tiền đạo |
2008–09 | Steven Gerrard | Anh | Tiền vệ |
2009–10 | Pepe Reina | Tây Ban Nha | Thủ môn |
2010–11 | Lucas Leiva | Brasil | Tiền vệ |
2011–12 | Martin Škrtel | Slovakia | Hậu vệ |
2012–13 | Luis Suárez | Uruguay | Tiền đạo |
2013–14 | Luis Suárez | Uruguay | Tiền đạo |
2014–15 | Philippe Coutinho | Brasil | Tiền vệ |
2015–16 | Philippe Coutinho | Brasil | Tiền vệ |
2016–17 | Sadio Mané | Senegal | Tiền đạo |
2017–18 | Mohamed Salah | Ai Cập | Tiền đạo |
2018–19 | Virgil van Dijk | Hà Lan | Hậu vệ |
Các đội trưởng của Lữ đoàn đỏ qua các thời
Cầu Thủ |
Giai Đoạn |
Andrew Hannah | 1892–1895 |
Jimmy Ross | 1895–1897 |
John McCartney | 1897–1898 |
Harry Storer | 1898–1899 |
Alex Raisbeck | 1899–1909 |
Arthur Goddard | 1909–1912 |
Ephraim Longworth | 1912–1913 |
Harry Lowe | 1913–1915 |
Donald McKinlay | 1919–1920 |
Ephraim Longworth | 1920–1921 |
Donald McKinlay | 1921–1928 |
Tom Bromilow | 1928–1929 |
James Jackson | 1929–1930 |
Tom Morrison | 1930–1931 |
Tom Bradshaw | 1931–1934 |
Tom Cooper | 1934–1939 |
Matt Busby | 1939–1940 |
Willie Fagan | 1945–1947 |
Jack Balmer | 1947–1950 |
Phil Taylor | 1950–1953 |
Bill Jones | 1953–1954 |
Laurie Hughes | 1954–1955 |
Billy Liddell | 1955–1958 |
Johnny Wheeler | 1958–1959 |
Ronnie Moran | 1959–1960 |
Dick White | 1960–1961 |
Ron Yeats | 1961–1970 |
Tommy Smith | 1970–1973 |
Emlyn Hughes | 1973–1978 |
Phil Thompson | 1978–1981 |
Graeme Souness | 1982–1984 |
Phil Neal | 1984–1985 |
Alan Hansen | 1985–1988 |
Ronnie Whelan | 1988–1989 |
Alan Hansen | 1989–1990 |
Ronnie Whelan | 1990–1991 |
Steve Nicol | 1990–1991 |
Mark Wright | 1991–1993 |
Ian Rush | 1993–1996 |
John Barnes | 1996–1997 |
Paul Ince | 1997–1999 |
Jamie Redknapp | 1999–2002 |
Sami Hyypiä | 2001–2003 |
Steven Gerrard | 2003–2015 |
Jordan Henderson | 2015–nay |
Quan chức, lãnh đạo
- Chủ sở hữu của CLB: Fenway Sports Group.
- Chủ tịch danh dự của CLB: David Moores.
- Đại sứ: Michael Owen, Ian Rush, Robbie Fowler.
Liverpool Football and Athletics Grounds Limited
- Chính chủ: John W. Henry
- Chủ tịch: Tom Werner
- Phó chủ tịch: David Ginsberg
- Giám đốc quản lý: Ian Ayre
- Giám đốc thương mại: Billy Hogan
- Giám đốc tài chính: Philip Nash
Câu lạc bộ bóng đá Liverpool
- Giám đốc: John W. Henry , Tom Werner , David Ginsberg, Michael Gordon, Michael Egan
- Giám đốc không điều hành: Kenny Dalglish
- Giám đốc hoạt động: Andrew Parkinson
- Giám đốc truyền thông: Susan Black
- Giám đốc trinh sát: hDave Fallows
- Trưởng trinh sát: Barry Hunter
- Giám đốc hiệu suất kỹ thuật: Michael Edwards
Thành tích của câu lạc bộ Liverpool F.C
Giải vô địch quốc gia
- Vô địch (18): 1901, 1906, 1922, 1923, 1947, 1964, 1966, 1973, 1976, 1977, 1979, 1980, 1982, 1983, 1984, 1986, 1988, 1990
Giải hạng nhất Anh
- Vô địch (4): 1894, 1896, 1905, 1962
Giải đấu cúp
- Cúp FA
- Vô địch (7): 1965, 1974, 1986, 1989, 1992, 2001, 2006
- Á quân (2): 1977, 2012
- Cúp Liên đoàn Anh
- Vô địch (8) (kỷ lục): 1981, 1982, 1983, 1984, 1995, 2001, 2003, 2012
- Siêu cúp Anh
- Vô địch (15): 1964*, 1965*, 1966, 1974, 1976, 1977*, 1979, 1980, 1982, 1986, 1988, 1989, 1990*, 2001, 2006* (*: đồng danh hiệu)
Giải vô địch châu Âu
- Vô địch (6): 1976–77, 1977–78, 1980–81, 1983–84, 2004–05, 2018–19
- Á quân (3): 1984–85, 2006–07, 2017–18
UEFA Cup
- Vô địch (3): 1973, 1976, 2001
Siêu cúp châu Âu
- Vô địch (4): 1977, 2001, 2005, 2019